Tục ngữ có câu: “Trên chữ Nhẫn (忍) có một lưỡi Dao (刀)”, người hiện đại muốn giải quyết tốt các mối quan hệ gia đình, hàng xóm và đơn vị công việc, nếu không Nhẫn thì hoàn toàn không được. Nhưng chữ Nhẫn nói ra thì dễ, hành được Nhẫn thì đôi khi thực sự rất khó khăn và thống khổ.

Phía trên chữ Nhẫn (忍) có một chữ dao (刀), dưới chữ dao (刀) có chữ Tâm (心), ý nghĩa là dùng cái tâm ở dưới lưỡi dao để hóa giải mọi mâu thuẫn, hay còn gọi là “Nhẫn hóa”, chính là xử sự lâm nguy mà không sợ, quyết đoán nắm bắt thời cơ, tránh nhuệ khí đối phương, dùng trí tuệ hóa giải, tránh xung đột trực diện, giảm thiểu những hao tổn và tổn thất không cần thiết, biết cách đặt vị trí của mình vào bản thân đối phương mà thiện hóa mọi mâu thuẫn.

Vậy Nhẫn chân chính là gì? Định nghĩa thực sự của Nhẫn là gì? “Nhẫn” không phải là ấm ức trong lòng, kìm nén tức giận, bởi vì ấm ức trong lòng thì khí không lưu thông, tổn thương gan và thận. Tổn thương gan thì dễ cáu giận, tổn thương thận thì trí tuệ tối tăm. Trí tuệ tối tăm thì dễ buông lời hồ đồ. Do vậy, “Nhẫn” cần phải chủ động, là tích cực gánh chịu, hóa giải thì mới giải quyết được vấn đề trên thực chất.

1. Chịu nhục chui háng

Tô Thức thời Bắc Tống từng nói: “Thất phu kiến nhục, bạt kiếm nhi khởi, đỉnh thân nhi đấu”, tức thất phụ bị nhục, rút kiếm đứng dậy, vươn mình chiến đấu. Kỳ thực, đây không phải là dũng cảm thực sự. Người dũng cảm thực sự là người khi đột nhiên đối diện với sự xúc phạm và đối xử bất công cũng không tranh đấu với đối phương, dùng thái độ nhẫn nhường để hóa giải mâu thuẫn, để đối phương có đường lùi. Dù cho gặp phải sự xỉ nhục vô cớ thì cũng có thể bình thản đối đãi, giải quyết vấn đề với tâm thái an nhiên tự tại, không ủy khuất trong lòng.

Hàn Tín là khai quốc công thần nhà Tây Hán, tâm đại Nhẫn của ông thật sự khiến người đời kính phục. Thời trẻ Hàn Tín thích đeo kiếm bên thân. Một hôm, khi ông đang đi trên phố chợ thì có một người thanh niên chặn đường ông và hạ nhục ông trước đám đông rằng: “Thân hình ngươi cao lớn, lại thích mang kiếm bên người, thực ra trong nội tâm lại rất nhát gan. Nếu ngươi thực sự không sợ chết thì hãy giết ta đi, nếu ngươi sợ chết thì hãy chui qua háng ta”.

Sau khi quan sát kỹ bộ dạng tên thanh niên đó, Hàn Tín đã thực sự cúi người chui qua háng hắn ta. Mọi người trên phố thấy vậy đều cười nhạo và chế giễu Hàn Tín, cho rằng Hàn Tín thật nhát gan.

Sau này, Hàn Tín trở thành đại tướng quân của Lưu Bang, ông cho triệu người thanh niên đã hạ nhục mình năm xưa đến, đồng thời nói với mọi người rằng: “Đây là một tráng sĩ. Năm xưa khi hạ nhục ta, ta có thể giết chết hắn ta, nhưng giết chết hắn ta mà không có danh nghĩa gì, thế nên ta đã nhẫn nại, vì nhẫn nại nên ta mới có thành tựu như ngày hôm nay”.

Tên thanh niên năm đó xin được Hàn Tín tha thứ, Hàn Tín đã tha tôi cho hắn ta, còn phong cho hắn ta làm một chức quan nhỏ.

Có thể thấy rằng, nhẫn nại không phải là hèn yếu hay nhu nhược, nhẫn nại là tránh những phiền phứ không cần thiết, khiến cho quan hệ hai bên trở nên dung hòa hơn, cùng nhau chung sống hòa thuận, thể hiện được tấm lòng bao dung quảng đại của người Đại Nhẫn.

2. Nằm gai nếm mật

Câu thành ngữ “Nằm gai nếm mật” ai ai cũng biết, ý nghĩa là ngủ trên chiếu cỏ, nếm mật đắng, mấy chục năm trôi qua ngày nào cũng như ngày nào. Đây là câu chuyện của Việt Vương Câu Tiễn sau khi chiến bại, trong suốt mấy chục năm, ngày nào ông cũng kiên trì nếm mật đắng trước khi dùng cơm. Chữ “Nhẫn” ở đây là một loại kiên trì, là một loại trách nhiệm.

Năm 498 TCN, Ngô Vương Hạp Lư dẫn quân tấn công nước Việt, nhưng bị nước Việt đánh bại, Hạp Lư bị trọng thương và tử vong. Hai năm sau, con trai của Hạp Lư là Phù Sai dẫn quân đánh bại nước Việt, Việt Vương Câu Tiễn bị áp giải đến nước Ngô để hầu hạ Ngô Vương.

Một ngày nọ, Ngô Vương lâm bệnh, Câu Tiễn chủ động tự mình đích thân nếm phân của Ngô Vương, khuôn mặt lộ ra vẻ mừng rỡ và nói với Ngô Vương Phù Sai rằng: “Từ màu sắc và mùi vị của phân có thể phán đoán ra được rằng sức khỏe của Đại Vương không có vấn đề gì, có thể yên tâm điều trị”.

Ba năm sau, Ngô Vương Phù Sai cho phép Việt Vương Câu Tiễn trở về nước Việt. Sau khi về nước, Câu Tiễn vẫn sống cuộc sống khổ cực như thời còn ở nước Ngô, thậm chí càng cần kiệm hơn nữa, yêu thương bách tính, vỗ về bá quan, huấn luyện binh sĩ.

Câu Tiễn treo túi mật đắng ở cạnh chỗ ngồi, lúc ngồi hoặc lúc nằm đều chăm chú nhìn túi mật đắng, khi ăn cơm đều nếm mật đắng trước tiên.

Sau khi Việt Vương Câu Tiễn mưu tính hoạch định 22 năm, cuối cùng đã bình định được nước Ngô, và được tôn làm bá chủ, đồng thời đem những vùng đất mà nước Ngô đã chiếm được trả lại cho các nước Sở, Tống, Lỗ…

Cổ kim Đông Tây, những người làm nên đại sự đều có ý chí vượt trên người thường, có tín niệm vững vàng như bàn thạch.

3.Tô Vũ chăn dê

Năm 100 TCN, Hung Nô bày tỏ hảo ý với triều Hán, nguyện ý gây dựng lại mối giao hảo xưa. Hán Vũ Đế sai Tô Vũ dẫn hơn 100 người đi sứ Hung Nô để đáp tạ Thiền Vu – vua Hung Nô.

Khi Tô Vũ chuẩn bị quay trở về triều Hán thì gặp phải nội loạn của Hung Nô. Nhóm người Tô Vũ bị bắt giữ, yêu cầu phải phục tùng Hung Nô. Đầu tiên, Thiền Vu sai Vệ Luật dùng tiền bạc và quan tước để du thuyết Tô Vũ, nhưng Tô Vũ kiên quyết từ chối.

Thiền Vu bèn hạ lệnh giam Tô Vũ trong một cái hang lộ thiên, không cung cấp lương thực và nước uống. Bị giam cầm trong hang, Tô Vũ vẫn không thay đổi tiết tháo, khát thì uống nước tuyết tan, đói thì ăn tấm áo da khoác trên mình. Thiền Vu thấy Tô Vũ ý chí kiên cường bèn rất khâm phục khí tiết của ông, không nỡ lòng sát hại, nhưng lại cũng không muốn thả ông trở về nhà Hán.

Cây cối xung quanh đâm chồi nảy lộc, ngày trở về đất Hán vẫn xa vời không biết đến ngày nào, Tô Vũ không tránh khỏi có những thương cảm, vì thế mà rơi lệ, ông dùng tay áo lau sạch lệ. Khi đó, một con dê phía trước mặt hướng về Tô Vũ kêu be be, dường như là đang an ủi ông.

Thế là Thiền Vu để Tô Vũ đến vùng Bắc Hải chăn dê, và nói với ông rằng khi nào dê sinh con thì mới cho ông trở về đất Hán. Tô Vũ đến nơi lưu đày mới phát hiện ra tất cả đều là dê đực. Ngày ngày ông chống gậy phù tiết của triều đình nhà Hán đi chăn dê.

Sau 19 năm, sứ thần triều Hán biết được tình cảnh của Tô Vũ qua lời kể của người bạn của ông, mới đón Tô Vũ từ Bắc Hải trở về Trường An.

Lúc ra đi, Tô Vũ đang tuổi tráng niên, khi trở về đầu tóc đã bạc phơ. Khi Tô Vũ đi sứ Hung Nô, ông đã từng làm bài thơ từ biệt thê tử rằng:

“Hành dịch tại chiến trường/Tương kiến vị hữu kỳ/Sinh đương phục lai quy/Tử đương trường tương tư.”

Cổ nhân coi những người vì lợi ích cá nhân mà phản bội quốc quân là “mưu nghịch”, coi những kẻ sợ chết mà vứt bỏ khí tiết nghĩa khí là “làm loạn”. Cái Nhẫn của Tô Vũ là lòng trung thành với nhà Hán, kiên định theo chính nghĩa và công lý, nhẫn nhịn chịu đựng sự khổ cực, không bị tiền tài và quan tước cám dỗ. Khi mùa đông qua đi mùa xuân tới, hoa nở hoa tàn, mái đầu xanh đã bạc phơ mà vẫn không thay đổi khí tiết.